Sunday, July 24, 2016

TỪ KẾ TOÁN ĐẾN TÀI CHÍNH

Đã là một pháp nhân, thì trong một doanh nghiệp luôn phải có sự tồn tại của công việc Kế toán- Tài chính. Tuy nhiên, tuỳ vào qui mô và loại hình kinh doanh mà bản chất của công việc này sẽ thiên về Kế toán tài chính (Financial accounting), Kế toán quản trị (Management accounting), hay Tài chính (Finance).
Trong thực tế tổ chức doanh nghiệp, thì ko cần phải luôn quá rạch ròi, tách bạch giữa ba bộ phận Kế toán tài chính, Kế toán quản trị và Tài chính DN. Ở trong khuôn khổ bài viết ta tạm lần lượt gọi tắt là A, B và C. Tuy nhiên hiểu rõ bản chất công việc của họ, sẽ giúp ta tổ chức mô hình phù hợp hơn cho bộ phần Kế toán-Tài chính của doanh nghiệp.
A: Mục đích chính là ghi sổ (book keeping), ta dễ dàng hình dung rằng, trong giao dịch kinh tế, tiền không bao giờ tự mất đi, nó chỉ chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác, trước khi bị hao mòn và bốc hơi (thua lỗ). A thiết kế 1 "kệ tủ 2 cửa", có nhiều "ngăn kéo", nguyên tắc của họ là lúc nào cũng mở 2 cánh cửa cùng lúc (double entry, debit vs credit), luôn bảo đảm có sự cân đối giữa tài sản và nguồn vốn, cho dù chúng đang được đặt ở bất cứ ngăn kéo (tài khoản) nào. A có nguyên tắc nhất định và được hướng dẫn bởi những chuẩn mực địa phương (VAS), mang tính bắt buộc. Mục đích là để làm cho thông tin mà A cung cấp đạt chuẩn tin cậy, so sánh được, đối với các đối tác không điều hành như: cổ đông, thuế, authorities, auditors, bankers, creditors, suppliers, clients.... Chính vì vậy, dữ liệu lịch sử, hóa đơn, chứng từ, hợp đồng dấu đỏ, là rất quan trọng đối với A. Nhìn chung, A chỉ có trách nhiệm báo cáo tổng thể theo pháp nhân, và cho những hoạt động đã xảy ra trong quá khứ.
B: do A bị ràng buộc bởi các yếu tố trên, nên có khá nhiều hạn chế trong việc hỗ trợ nhà quản trị ra quyết định. B ra đời để khắc phục nhược điểm đó. B chỉ phục vụ thông tin nội bộ mà thôi, vì vậy B mặc sức tung hoành với các khái niệm mang tính hợp lý với hoàn cảnh, nhiều hơn là chuẩn mực cứng nhắc. B vận dụng các khái niệm như sunk-cots, relevant- costs, opportunity-cots, learning curve, variances; các kiểu phân bổ chi phí như: ABC, absorbtion; các model như: break-even, sensitivity, simulations... Xét về chi tiết, B chia nhỏ những thông tin của A cả về chiều ngang lẫn chiều dọc (cost items, cost centers, profit centers, SKU, brands, category...); cả về quá khứ, hiện tại lẫn tương lai (budgeting). Hệ thống ERP, với những database hạng nặng, là 1 công cụ đắc lực giúp B làm được điều đó.
Ngoài ra, B còn được gọi với rất nhiều cái tên mới như business analyst, finance business partner. Họ là những cánh tay mặt để hỗ trợ nhà lãnh đạo ra quyết định, chẳng hạn như có nên làm khuyến mãi mua 2 tặng 1? Làm xong rồi thì đánh giá hiệu quả của nó ra sao? Có nên tung sản phẩm mới, hay xoá sổ một sản phẩm hiện có?
Ngày nay, khái niệm Performance management trong quản lý doanh nghiệp cũng đang làm nổi bật hơn vai trò của B. Trong 1 doanh nghiệp có qui mô khá, thường thì B chính là bộ phận thiết kế và tổng hợp business scorecard, KPIs của các trung tâm kinh doanh khác nhau.
C: Tài chính nôm na là linh hồn (quyết định đầu tư) và trái tim (tính thanh khoản) của doanh nghiệp, là mảng mang tính chiến lược hơn hẳn trong chức năng KTTC nói chung. Rõ ràng là không có CEO nào đề cập đến "chiến lược kế toán" cả, một số ít trong số họ chỉ nói đến cụm từ "chiến lược tài chính" mà thôi.
Nói đến đầu tư là nói đến risk v.s return, systematic risks v.s business risks, diversification....; là nói đến time value of money, đến cost of capital. Cost of capital của từng doanh nghiệp thì lại phụ thuộc vào hai yếu tố 1. kì vọng của chủ đầu tư; 2. cơ cấu vốn (debt/ equiy). Tài chính DN quán xuyến các vấn đề đó.
Ở một doanh nghiệp mà phải lưu tâm đến dòng tiền nhiều hơn lợi nhuận, thì vai trò Tài chính sẽ nổi bật hơn vai trò Kế toán. Ví dụ: kinh doanh dịch vụ thì thường đầu tư ban đầu ít, operating costs cao, gần như chỉ cần có bộ phận kế toán. Trái lại, ở doanh nghiệp bất động sản, để quản trị được dòng tiền của cả dự án, giám đốc tài chính phải biết xây dựng các mô hình tính toán NPV, IRR xuyên suốt vòng đời của dự án.
Vai trò Treasury trong C cũng rất quan trọng. Đặc biệt ở những tập đoàn lớn, ngoài việc chăm chút các qui chế chế tài chính, currency hedging, treasury directors còn thậm chí còn có thể xây dựng cả hệ thống "in-house banking" để tích hợp dòng tiền ngắn hạn 1 cách hiệu quả nhất.
Trên đây là một góc nhìn sơ lược về công việc của A, B, C. Mặc dù khác nhau, nhưng người giỏi chuyên môn đều có kiến thức và khả năng nhất định để làm lấn việc của nhau. Tùy vào quy mô doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh, mà nên thiết kế mức độ tách bạch hay kiêm nhiệm của các vị này. Người xưa có câu "lắm thầy nhiều ma", đông quân quá chưa hẳn đã là điều tốt.

No comments:

Post a Comment